Đôi dòng giới thiệu về lịch sử Linux

Làm System Admin mà không biết lịch sử Linux người ta hỏi mà không trả lời được thì cũng kỳ lắm. Nay SysVN xin mạng phép chia sẻ đôi dòng lịch sử về Linux để các bạn tham khảo!

  1. Đôi dòng lịch sử

Năm 1969, Unix được thiết kế bằng ngôn ngữ C do hai tác giả Dennis Ritchie và Ken Thompson tại AT&T Bell Labs nhằm sử dụng cho minicomputers và mainframes, phiên bản đầu tiên được công bố vào năm 1970. Unix là một trong những hệ điều hành phổ biến nhất vì tính đơn giản và dễ tương thích. Mã nguồn của Unix được công bố rộng rãi trên toàn thế giới trong đó có Berkeley California. Một số công ty cũng phát triển hệ điều hành Unix cho riêng mình như: AIX do IBM phát triển, SunOS của Sun (sau này gọi là Sun Solaris), HP phát triển HP-UX, BSD và còn có rất nhiều công ty khác.

Năm 1973, Unix được viết lại bằng ngôn ngữ C do Dennis Ritchie phát triển. Năm 1975, phân phối các bản V6 cho các trường đại học nổi tiếng nhất trong đó có Berkeley. Năm 1979, phân phối bản V7 rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp do đó vấn đề tương thích và các phiên bản tựa Unix (UNIX-Like) ra đời. Năm 1980, là thời kỳ công nghiệp của Unix, hệ thống V của AT&T cho phép thương mại hóa. Phiên bản 4.2 BSD của Berkeley là hệ thống cơ sở cho nhiều công ty trong đó có Sun Microsystems (SunOS), Digital (Ultrix), Juniper (JunOS) …Berkeley phát triển riêng một phiên bản khác có tên là BSD (Berkeley Software Distribution) với kỹ thuật phân trang bộ nhớ, dịch vụ mạng TCP/IP,…XENIX của Microsoft cho các microcomputers (tương thích với hệ thống V).

Lịch sử phát triển của Unix

Năm 1983, Richard Stallman bắt đầu dự án GNU với mục đích tạo ra một hệ điều hành tương tự Unix hoạt động dưới giấy phép GPL (GNU General Public License). Những năm đầu thập kỷ 1990, dự án GNU đã có đầy đủ các phần mềm cần thiết để tạo nên một hệ điều hành hoàn chỉnh. Một dự án hệ điều hành tự do khác được phát triển vào năm 1980 tại University of California, Berkeley (phiên bản 6 của Unix) với tên gọi là BSD. Tuy nhiên BSD sử dụng mã nguồn của Unix nên phải tuân theo luật AT&T. Điều này hạn chế sự phát triển của BSD.

MINIX, một hệ điều hành tựa Unix do Andrew S. Tanenbaum phát triển năm 1987, dự định dành cho môi trường học tập và nghiên cứu. Do mã nguồn không được để mở nên việc phân phối và phát triển lại mã nguồn của hệ điều hành bị hạn chế. Thêm vào đó MINIX được thiết kế cho kiến trúc 16 bits, không tương thích cho kiến trúc 32 bits. Các lý do trên đã thúc đẩy Linus Torvalds bắt đầu dự án của mình.

2. Sự ra đời Linux

Năm 1991, tại Helsinki, Phần Lan, Linus Torvalds bắt đầu một dự án (sau này trở thành Linux – Linux kernel). Bắt đầu bằng một thiết bị đầu cuối mà Torvalds sử dụng để truy cập đến các Server của trường Đại học. Torvalds viết các chương trình đặc biệt dành cho phần cứng độc lập với hệ điều hành vì anh muốn sử dụng các chức năng của máy tính cá nhân mới của mình. Chương trình này được viết trên MINIX với ngôn ngữ C và được dich bằng GNU C.

Ngày 25/8/1991, Torvalds thông báo hệ thống này trên hệ thống thông báo Usenet với tựa là “comp.os.minix.” Linus Torvalds muốn gọi tác phẩm của mình là Freax, kết hợp của “freax” (kỳ dị), “free” (tự do), và “x” (Unix). Trong suốt quá trình làm việc anh lưu chương trình này với tên là “Freax” khoảng nủa năm. Để việc phát triển dễ dàng, các tập tin được upload lên một FTP Server (ftp.funet.fi) của FUNET vào 9/1991. Ari Lemmke, cộng sự của Torvalds tại đại học Helsinki nghỉ rằng tên Freax không hay lắm nên đặt lại thành “Linux” mà không hỏi ý Torvalds. Sau đó Torvalds đồng ý với tên gọi mới này.

Bài viết: Đặng Thanh Tùng